Có thể nói, hoạt động văn hóa nghệ thuật là nơi thuận lợi để cho con người được trau dồi, bồi dưỡng những cung bậc cảm xúc, là con đường,phương tiện dễ diễn đạt cảm xúc, tư tưởng một cách đặc biệt đối với trẻ thơ.Các hoạt động nghệ thuật sẽkhơi gợi được cảm quan thẩm mỹ hướng con người tới những giá trị văn hóa cao đẹp để từ đó con người tự sáng tạo ra nhân cách của mình và không ngừng tái hiện, tự giáo dục bản thân.Hình thành nhân cách trẻ qua các hoạt động văn hóa nghệ thuật chính là một trong những giải pháp tốiưu để đảm bảo chất lượng công cuộc xây dựng con người cho sự nghiệp phát triển đất nước.Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã thể hiện rõ vai trò của nghệ thuật: “Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”. Đồng thời, Đại hội VI của Đảng còn nhấn mạnh đến chức năng cao quý của văn hóa: “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”. Như thế, âm nhạc và mỹ thuật có vai trò cụ thể như thế nào đối với sự phát triển của trẻ thơ.
Thứ nhất là vai trò của âm nhạc
Đối với trẻ thơ, âm nhạc có thể ví như nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần của bé ngay từ khi lọtlòng mẹ và nó có vai trò đặc biệt trong giai đoạn trẻ ở tuổimầm non. Những giai điệu vui tươi, trầm bổng, sự phong phú của âm hình, tiết tấu và màu sắcâm thanh của các thể loại âm nhạc đưa con trẻ vào thế giới của cái đẹpmột cách hấp dẫn và thú vị.Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ thì:đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, âm nhạc là môn học giúp trẻ phát triển toàn diện nhất.Âm nhạc có thể giúp trẻ phát triển nhận thức, ngôn ngữ, hòa nhập được với thế giới bên ngoài từ gia đình, cộng đồng, nhà trường và xã hội. Chính những hiện tượng của cuộc sống, những truyền thống văn hóa được phảnánh trong các tác phẩm âm nhạc làm phong phú thêm vốn hiểu biết của trẻ.Trong khi tập hát,trẻ không chỉ tiếp thu những đường nét, giai điệu, tiết tấu âm nhạc, lời ca giản dị dễ hiểu gần gũi với trẻ mà còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Theo giáo sư Michael Schulte - Markwort, thuộc Viện Tâm lý trẻ em ở bệnh viện của đại học Hamburg, Đức thì: “âm nhạc giúp trung tâm xử lý ngôn ngữ của não phát triển tốt, khiến trẻ có thể bộc lộ khả năng âm nhạc ở độ tuổi sớm nhất, phục vụ cho việc học và nói sớm hơn những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình không có cơ hội tiếp cận với âm nhạc”
Âm nhạc là phương tiện góp phần phát triển giáo dục thể chất cho trẻ. Khitrẻ hát và vận động theo nhạc gợi lên những thay đổi của nhịp tim, mạch, trao đổi máu, giãn nở hô hấp làm cơ thể mềm dẻo, khéo léo…Theo kết luận của Bộ Giáo dục và Đào tạo Mỹ, vấn đề mấu chốt của việc vận động theo nhạc nằm ở mối tương quan giữa hoạt động thể chất và hoạt động trí não, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự luân phiên giữa vận động thể lực và vận động trí não có tác động tích cực đến sức khỏe của con người, nhờ đó cường độ và chất lượng của hoạt động trí não được nâng cao.
Âm nhạc còn là phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Nói chung, việc sử dụng âm nhạc như một thanh công cụtích cực để đưa vàoý thức của trẻ một cách sâu sắc những giá trị, vẻ đẹp trong nhân cách con người.Quan hệ giữa thẩm mỹ được dựa trên kinh nghiệm của riêng trẻ và xác định hoạtđộng cũng như cảm xúc gắn với âm nhạc ở trẻ. Nếutrẻ có được thái độ hứng thú, say mê với âm nhạc thìnhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ về cơ bản là đã được giải quyết, bên cạnh đó các kỹnăng nhạc đa dạng và phong phú cũng được hình thành.
Và điều quan trọng nữa, âm nhạc tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện cảm xúc của mình và kích thích sự hiểu biết văn hóa của các vùng miền trên thế giới. Bởi chính ở đây, âm nhạc được coi như một phương tiện đưa thế giới tới tâm hồn trẻ, giáo dục toàn diện nhân cách trẻ.Âm nhạc là phương tiện góp phần hình thành cho trẻ phẩm chất đạođức.Bởi khi tác động đến tình cảm của trẻ, âm nhạc đã truyềntải tới trẻ tình cảm đạo đức, nhiều khi tác động âm nhạc còn nhanh hơn cả nhữnglời khuyên, hay sự ra lệnh của người lớn.Các tác phẩm ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con người, những hình ảnh thân thuộcvới trẻ như bà, mẹ, chú bộ đội, cô giáo, gợi cho trẻ tình yêu quê hương đất nước,yêu thủ đô, sự quan tâm yêu thương, gắn bó với người ruột thịt, lòng biếtơn vớinhững người đã cống hiến cho đất nước vì nhân dân.Những điệu múa, trò chơi dân gian, các bài hát dân ca các vùng, các miền đềuđem đến cho trẻ những cảm xúc trữ tình, niềm tự hào của dân tộc.Cho trẻ làm quen với những tiết tấu điển hình của các bài hát hay trích đoạn tácphẩm của nước ngoài không chỉ giúp trẻ mở mang hiểu biết về các dân tộc, cácvùng miền khác nhau mà còn nhen nhóm trong lòng trẻ thơ tình hữu nghị quốctế, cộng đồng.
Như vậy,âm nhạc là một phương tiện kỳ diệu và tế nhị nhất để truyền đạt lời kêu gọi của những cái tốt đẹp và nhân đạo. Nó dẫn dắt trẻ vào thế giới của điều thiện, tạo ra sự đồng cảm và là một phương tiện bồi dưỡng năng lực sáng tạo của trí tuệ mà không một phương tiện nào sánh được.Qua giáo dục âm nhạc hình thành cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, Tổ quốc, tình yêu thương con người.Âm nhạc là phương tiện phát triển năng lực thẩm mĩ, đạo đức, trí tuệ, thể chất cho trẻ, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện nhân cách, củng cố kiến thức trẻ trong học tập, vui chơi. Bởi vậy, giáo dục âm nhạc cho trẻ mầm non - đó không phải là đào tạo nhạc công mà chính là đào tạocon người.
Thứ hai là vai trò của mỹ thuật
Cùng với hoạt động âm nhạc, hoạt động mỹ thuật cũng có ý nghĩa vô cùng to lớn tác động đến tâm hồn và sự phát triển của trẻ. Là phương tiện để trẻ bộc lộ, rèn luyện bản thân theo hướng tích cực, chủ động và sáng tạo. Đồng thời thông qua mỹ thuật, trẻ được học hỏi những kinh nghiệm lịch sử, những nét đẹp văn hóa kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa dân tộc. Điều ấy đã được khẳng định, minh chứng qua các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học ở Anh và Mỹ, cũng như sự trải nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy và tiếp cận với môn nghệ thuật này.
Đối với sựphát triển nhận thức,khi trẻ tham gia hoạt động tạo hình, trẻ luôn vận động tư duy tri giác các đốitượng miêu tả, trẻ luôn phải nỗ lực phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa hình tượng. Bởi vậy có thể khẳng định hoạt động mỹ thuật là một phương tiện tích cực để phát triển ở trẻ các khả năng hoạt động trí tuệ như óc quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ và nhận thức.
Vềphát triểnngôn ngữ,hoạt động tạo hình với quá trình tìm hiểu, đánh giá đối tượng miêu tả sản phẩm tạo hình sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ vốn từ, lời nói hình tượng truyền cảm và phát triển ở trẻ ngôn ngữ mạch lạc. Đặc biệt trong hoạt động tạo hình đã hàm chứa chuỗi ngôn ngữ ở trong cảm xúc của trẻ và được trẻ bộc lộ ra bằng ngôn ngữ của hoạt động tạo hình. Quá trình ấy, trẻ luôn phải tư duy ngôn ngữ của mình trước khi chuyển hóa sang ngôn ngữ tạo hình. Vì vậy ngôn ngữ ngày càng được phát triển.
Vàkhi xem xét kỹhoạt động mỹ thuật, người ta thấy ảnh hưởng của nó tới sức khỏe tinh thần và sự phát triển thể chất ở trẻ là rất to lớn. Những giờ phút hoạt động tự do trong môi trường thẩm mỹ, trong bầu không khí thoải mái sinh động sẽ tạo cho trẻ niềm vui sướng. Chính sự vui vẻ phấn khởi này tác động rất tích cực đến tim mạch, điều hòa hoạt động hệ thần kinh, điều chỉnh toàn bộ hoạt động của cơ thể. Như những công trình nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học ngày nay ở các nước Nga, Mỹ, Anh đã nhấn mạnh vai trò của hoạt động nghệ thuật, đặc biệt là hoạt động tạo hình như những biện pháp tâm lý trị liệu rất có hiệu quả trong việc nâng cao sức khỏe và điều trị cho trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc một số bệnh có nguồn gốc tinh thần… Có thể coi hoạt động tạo hình như “món ăn tinh thần”, một loại“vitamin” đặc biệt cho sự phát triển tâm lý, sinh lý ở trẻ em.Đặc biệt, tham gia vào hoạt động mỹ thuật chính là trẻ được tham gia vào quá trình bồi dưỡng thẩm mỹ. Bởi mỹ thuậtcó vai trò là phương tiện chủ yếu của giáo dục thẩm mỹ. Việc quan sát, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng giúp trẻ nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ (hình dáng, màu sắc, cấu trúc, tỷ lệ, sự sắp xếp trong không gian…), nhận ra được những nét độc đáo tạo nên sức hấp dẫn của đối tượng miêu tả. Sự đa dạng, phong phú của đặc điểm thẩm mỹ trên đối tượng được miêu tả làm xuất hiện những rung động, những xúc cảm thẩm mỹ. Từ đó giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ thiên nhiên, các tác phẩm nghệ thuật. Sự phối hợp khả năng tri giác thẩm mỹ, nhận thức thẩm mỹ với yếu tố tình cảm thẩm mỹ và thái độ thẩm mỹ sẽ làm cho quá trình quan sát, tìm hiểu các đối tượng miêu tả trong tạo hình thực sự trở thành một quá trình cảm thụ thẩm mỹ.
Trong bồi dưỡngtình cảm, đạo đức và hiểu biết xã hội,khi tham gia các hoạt động mỹ thuật,trẻ sẽ luôn cố gắng, say xưa thể hiện những tình cảm, cảm xúc riêng của bản thân mà ngôn ngữ nói thông thường không bộc lộ được hết. Trẻ được bộc lộ cái tôi của mình một cách triệt để và trải nghiệm bản thân cũng như thăng hoa trong sáng tạo. Hoạt động mỹ thuật của trẻ em thể hiện sự định hướng xã hội cho sự phát triển nhân cách ở trẻ em. Sự định hướng xã hội của hoạt động mỹ thuật làm cho trẻ luôn hướng tới những người khác như một thành viên của cộng đồng, coi sự thể hiện trong hoạt động mỹ thuật là một phương tiện giao tiếp. Nội dung của hoạt động mỹ thuật là những gì gần gũi nhất, rung động nhất trong thiên nhiên và cuộc sống xung quanh nên đó là con đường dẫn dắt trẻ nhanh chóng hòa nhập vào xã hội xung quanh, nhanh chóng trở thành thành tố của xã hội đó...
Tóm lại, nghệ thuật có vai trò to lớn đối với việc bồi dưỡng cảm xúc, tâm hồn trẻ thơ cũng như góp phần hình thành nhân cách, phát triển toàn diện cho trẻ. Bởi vậy, trẻ em cần được chăm lo, tạo mọi điều kiện để được thỏa mãn nhu cầu nghệ thuật chính đáng của mình. Đây là điều vô cùng quan trọng mà gia đình, nhà trường và xã hội cần phải hiểu rõ để có những đầu tư, quan tâm thỏa đáng, kịp thời cho con em của chúng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2003),Mỹ thuật cơ bản, (Học phần một, Giáo trình đào tạo giáo viên MN), Lưu hành nội bộ.
2.C. Mác, F. Ănghen, V.I. Lê nin, Xtalin (1976),Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam 2005,Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4.Ngô Minh Duy,Tâm lý học đại cương (Tài liệu lưu hành nội bộ), Học viện Phật giáo ViệtNamtại TP. HCM.
5.Tô Ngọc Thanh (1969),Những vấn đề âm nhạc và múa, Nxb Vụ Nghệ thuật âm nhạc.
6.Phạm Quang Trung - Đinh Hồng Thái (2003),Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ tuổi mầm non,Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
7.Lê Thanh Thúy (2003),Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non,Nxb Đại học Sư phạm.
8.Nguyễn Minh Anh, “Âm nhạc đối với bé không chỉ là giải trí”
|
Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra sự ảnh hưởng tích cực của nghệ thuật tới sự hình thành nhân cách, trí tuệ con người. Từ múa, âm nhạc cho tới nghệ thuật tạo hình, các bộ môn nghệ thuật cung cấp những phương tiện độc đáo để biểu hiện, nắm bắt được cảm xúc và niềm đam mê, cho phép khám phá các nền văn hóa và sáng tạo những ý tưởng mới. Với mục đích đóng góp vào sự phát triển giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam, bài viết tập trung xem xét ba vấn đề, đó là: 1) Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật, 2) Các năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học môn mỹ thuật nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, 3) Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay.
1. Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật
Năm 2002, Tổng thống Bush ký Đạo luật giáo dục No Child Left Behind (Không để trẻ em nào ở phía sau) tại Hamilton, Ohio, Mỹ. Một trong những điều khoản của Đạo luật này là yêu cầu mọi học sinh Mỹ đạt mức thông thạo về đọc và làm toán, tiêu chuẩn mà nhiều người từng gọi là không tưởng. Do trọng tâm chính của No Child Left Behind là kỹ năng đọc, viết và toán học, đồng thời bởi sự suy thoái kinh tế nên một số trường đã cắt giảm ngân sách và thời gian đối với các môn học như lịch sử, nghệ thuật, và âm nhạc để cung cấp nguồn lực cho toán học. Dự luật No Child Left Behindđã ảnh hưởng đến các môn nghệ thuật trong chương trình phổ thông ở Mỹ, làm dấy lên những lo ngại về sự hạn chế các cơ hội cho trẻ em trải nghiệm những khám phá và quan tâm đến sáng tạo. Năm 2010, Tổng thống Obama kêu gọi viết lại luật giáo dục No Child Left Behind, với hy vọng các trường sẽ có một chương trình giảng dạy phong phú về nghệ thuật, lịch sử, khoa học, và các môn học khác.
Thực tế là, nghệ thuật bị xếp là thứ yếu giữa toán học, vật lý, hóa học và một số môn học khác. Chính vì thế, trong phản ứng với việc xem nhẹ giáo dục nghệ thuật, một số nhà giáo dục đã nghiên cứu về chương trình Học thông qua nghệ thuật (Learning Through Art). Các nghiên cứu cho thấy, giáo dục nghệ thuật giúp mở rộng cách nhìn của học sinh về thế giới, khuyến khích sự phát triển các kỹ năng như giải quyết vấn đề, nâng cao nhận thức, và giúp học sinh học các môn học khác tốt hơn. Trong một nghiên cứu bắt đầu từ năm 1993 của Đại học California tại Irvine các nhà nghiên cứu phát hiện ra điều lý thú về tác động của nghệ thuật trong lĩnh vực giáo dục. Học sinh từng học chơi đàn piano đạt kết quả trung bình cao hơn trong các bài kiểm tra kỹ năng quan trọng về toán học và khoa học. Sau sáu tháng chơi piano, với trẻ ở độ tuổi từ ba đến năm đã cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các bài kiểm tra vật lý không gian. Các nhà nghiên cứu Gordon Shaw và Frances Rauscher thuộc Đại học Wisconsin tại Oshkosh, kiểm tra sinh viên đại học về thực hành suy luận trong những điều kiện không gian khác nhau; một nhóm thiền trong im lặng, một nhóm nghe nhạc thư giãn và nhóm thứ ba cho nghe 10 phút bản Sonata của Mozart. Kết quả, nhóm cuối cùng ghi được 8-9 điểm cao hơn các nhóm khác. Shaw và Rauscher gọi đây là "Hiệu lực Mozart". Tại sao nghệ thuật lại làm nên sự khác biệt trong việc học và nhận thức thế giới? Các nhà nghiên cứu như Shaw và Rauscher tin rằng âm nhạc thực sự kích thích các hình thức và thường xuyên tạo kết nối mới trong não của trẻ em. Năm 1983, Giáo sư Howard Gardner ở Đại học Harvard giới thiệu rộng rãi lý thuyết "Đa trí tuệ." Gardner tin rằng có ít nhất tám hình thức trí tuệ: ngôn ngữ, logic, âm nhạc, không gian, nhân học, tự nhiên, xã hội và tâm lý. Với quan niệm tiếp xúc với sáng tạo của các bậc thầy quan trọng như Rembrandt và Picasso, Mozart và Duke Ellington, Shakespeare và Toni Morrison giúp nuôi dưỡng trí tuệ. Gardner ủng hộ khuyến khích mỗi trẻ em ít nhất làm quen với một hình thức nghệ thuật, không chỉ như một phương tiện sáng tạo, mà còn như một cách để học hỏi về thế giới.
Như vậy, học tập nghệ thuật không chỉ giúp phát triển tư duy sáng tạo và giáo dục toàn diện với các yếu tố thẩm mỹ mà còn đem lại niềm vui, giúp học sinh tiếp thu các môn học khác hiệu quả hơn. Dưới đây, bài viết sẽ tập trung đi sâu trình bày về những năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật ở phổ thông.
2. Các năng lực cá nhân được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật - Nhìn từ kinh nghiệm thế giới
Các hoạt động trong môn học mỹ thuật khi được xây dựng hợp lý sẽ cung cấp cho học sinh những trải nghiệm học tập thú vị giúp khám phá bản thân và thế giới. Giáo dục mỹ thuật ở một số nước cho thấy những hiệu quả tuyệt vời về sự giáo dục toàn diện, phát huy các năng lực của người học thông qua các môn học nghệ thuật trong nhà trường như:
- Năng lực nhận thức
- Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
- Năng lực biểu đạt
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực đánh giá
Năng lực nhận thức
Nhờ những trải nghiệm trong quá trình học môn mỹ thuật từ thấp đến cao, học sinh sẽ không chỉ được nâng cao năng lực nhận thức về tạo hình, mà còn cả về các kiến thức lịch sử, văn hóa và xã hội. Về kiến thức mỹ thuật, học sinh có thể tìm hiểu tên gọi màu sắc, hình dạng, chất liệu như biết được sự tạo thành màu mới từ sự pha trộn hai màu cơ bản với nhau, biết cách quan sát qua đó nắm bắt được hình dạng và màu sắc của đối tượng, hình thành và phát triển nhận thức về nghệ thuật ba chiều trong không gian, nắm được một số chất liệu cơ bản sử dụng trong môn học mỹ thuật... Bên cạnh đó, nghệ thuật là công cụ xuất sắc cho việc giảng dạy kiến thức. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó thì cần có chương trình, phương pháp dạy và học thích hợp đối với mỗi lứa tuổi. Công trìnhDiscipline - Based Art education: Acurriculum Sampler1 do Kay Alexander và Michael Day biên soạn năm 1992 cung cấp các ví dụ về những bài học mỹ thuật giúp học sinh nâng cao nhận thức, chẳng hạn, chương trình học dành cho học sinh lớp 2 với năm bài học với các chủ đề như: Ai cũng cần được chăm sóc (Everyone Needs to Care), Mọi người đều cần ai đó (Everybody Needs Somebody), Chia sẻ (Sharing), Cảm xúc (Feelings), và Ngày sinh nhật của mọi người (Everybody’s Birthday). Các chủ đề nói trên được lựa chọn từ sự nghiên cứu về nhu cầu và tâm lý của học sinh. Cả năm bài học đều quan tâm đến việc phát triển năng lực nhận thức thông qua sự tích hợp kiến thức của bốn lĩnh vực: lịch sử nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, phê bình nghệ thuật và mỹ học. Bài học Ai cũng cần được chăm sóc chỉ yêu cầu vật liệu vẽ là bút chì, sáp màu, và giấy, thêm vào đó là ba bức tranh của danh họa thế giới để tham khảo: Em gái với búp bê (Girl with Doll) của Oska Kokoschka2, Thiếu nữ với con mèo (Woman with a Cat) của Piere August Renoir3, và Thiếu nữ với con chó trắng (Woman with White Dog) của Nicholas Vasilieff4, song bài học lại đem đến những hiệu quả tích cực đối với mỗi học sinh. Mục đích của bài học tập trung vào bốn vấn đề: một là, tạo sự kết nối giữa cảm xúc của học sinh về sự quan tâm, chăm sóc và sự biểu hiện những cảm xúc này trong tranh các họa sĩ bậc thầy; hai là, giải thích chủ đề sự quan tâm về điều gì hay ai đó như sự biểu hiện trong tác phẩm hội họa; ba là, học sinh sáng tạo những bức vẽ của mình về chủ đề mà mình quan tâm; bốn là, tạo sự hưởng ứng về thẩm mỹ giữa tác phẩm nghệ thuật và bài vẽ của mình. Như vậy, nội dung bài học chú ý đến sự nhạy cảm của học sinh ở cấp tiểu học về mối quan hệ trong xã hội. Các bước trong bài học giúp học sinh tiếp thu được những kiến thức về sự biểu hiện cảm xúc thông qua nghệ thuật của những nền văn hóa khác, đồng thời nhờ vào quan sát và trải nghiệm trong bài học học sinh phát triển năng lực nhận thức.
Qua ví dụ vừa nêu có thể thấy rằng, môn mỹ thuật sẽ giúp học sinh nâng cao năng lực nhận thức, đạt được những hiểu biết quan trọng về họa sĩ (kiến thức về lịch sử nghệ thuật), phân tích cảm xúc (phê bình nghệ thuật), cảm nhận về thẩm mỹ (mỹ học), biểu hiện cảm xúc cá nhân thông qua việc vẽ tranh (sáng tạo).
Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
Những trải nghiệm thực hành trong môn mỹ thuật như vẽ tranh, nặn đồ vật, cắt dán… sẽ giúp học sinh trở nên khéo léo hơn nhờ đó phát triển năng lực kỹ năng và kỹ thuật. Quá trình học môn mỹ thuật, học sinh học cách biểu hiện cảm xúc bằng đường nét, màu sắc, hình khối mà dần dần có khả năng sử dụng các kỹ thuật khác nhau như vẽ nét, hình, tô màu trên giấy, tạo hình và bố cục sản phẩm mỹ thuật 3 chiều, kỹ năng cắt, dán… Chỉ riêng với vẽ nét, học sinh sẽ rèn luyện những kỹ thuật thể hiện các loại nét khác như như nét thanh, nét thô; hoặc với vẽ hình được rèn luyện kỹ năng sử dụng bút để xây dựng các hình có khả năng diễn đạt cảm xúc; pha trộn các màu cơ bản để tạo thành mầu mới hay quá trình tạo khối từ các vật liệu khác nhau, học sinh sẽ biết cách hoàn thiện và phát triển vật liệu thành sản phẩm mỹ thuật. Ngoài ra còn phải kể đến các kỹ thuật xử lý vật liệu, chất liệu trong quá trình thực hành các bài tập mỹ thuật.
Môn mỹ thuật là môn học thiên nhiều về thực hành, thông qua thực hành để nắm bắt kiến thức, do vậy học vẽ và tạo hình ba chiều sẽ giúp học sinh phát triển được năng lực kỹ năng và kỹ thuật. John Dewey (1859-1952), nhà giáo dục lỗi lạc với gia tài tư tưởng bao trùm đời sống trí tuệ nước Mỹ thế kỷ XX, đã đặt nền tảng triết học cho giáo dục thực nghiệm. Theo đó, phương pháp truyền đạt kiến thức sinh động và cảm hứng đối với người học là những trải nghiệm của tất cả các giác quan, thông qua các bài học có sự kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng thực hành, nhờ đó phát huy được năng lực kỹ năng và kỹ thuật của người học.
Năng lực biểu đạt
Nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện cách nhìn, lối nghĩ về thế giới. Thông qua việc vẽ tranh, nặn đồ vật, tạo hình sản phẩm trong môn học mỹ thuật, học sinh sẽ phát triển năng lực biểu đạt cảm xúc, suy nghĩ, cách nhìn của mình về gia đình, bạn bè, nhà trường và thế giới xung quanh. Giáo dục mỹ thuật ở các nước tiên tiến cho thấy, các bài học theo chủ đề kết hợp với phương pháp học thảo luận mở ra cơ hội giảm thiểu áp lực của việc tiếp nhận thông tin một chiều từ giáo viên, kích thích tư duy sáng tạo, năng lực biểu đạt, trình bày vấn đề, giải quyết vấn đề của người học. Nói cách khác, giờ học mỹ thuật khi được tổ chức khoa học và hợp lý sẽ kích thích các giác quan và giúp học sinh phát triển năng lực biểu đạt. Lấy thí dụ, bài 4 Đường nét, Hình khối, và màu sắc (Lines, Shapes, and Colors) trong cuốn Creating Art 25, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, không chỉ giúp học sinh học về các yếu tố tạo hình cơ bản mà còn giúp học sinh học cách biểu hiện cảm xúc và trình bày ý tưởng. Trong phần bài tập yêu cầu học sinh nghĩ về từ “Giận” (Anger), tiếp đó là câu hỏi “Khi bạn nghĩ đến từ này, màu gì xuất hiện trong tâm trí bạn? Hãy sử dụng màu đó để vẽ một đường nét và hình để biểu hiện sự giận dữ.” Tương tự, bài tập tiếp theo yêu cầu học sinh tìm màu biểu đạt về hòa bình, sử dụng màu đó để vẽ đường nét và hình biểu hiện về hòa bình.
Như vậy, học sinh có thể thông qua các bài tập mỹ thuật học cách trình bày cảm xúc, ước mơ, cách nhìn nhận của mình về sự kiện hay con người. Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng giáo dục nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng nuôi dưỡng sự phát triển não bộ, đặc biệt là chức năng não phải, về sáng tạo và trực quan. Điều quan trọng là giáo dục nghệ thuật dạy tư duy hơn là nhận câu trả lời đúng, chính xác. Trên cơ sở các bài tập mỹ thuật, học sinh tìm hiểu vấn đề, và trình bày cách giải thích theo cách riêng bằng đường nét, hình khối và màu sắc… Học sinh không chỉ phát triển năng lực biểu đạt thông qua phương tiện, ngôn ngữ mỹ thuật mà còn cả năng lực biểu đạt ngôn ngữ, nét mặt, cử chỉ, hành vi.
Năng lực giao tiếp
Các mô hình bài học được thiết kế theo kiểu vẽ cùng nhau, xây dựng câu chuyện, trình diễn, sắm vai, tạo hình mỹ thuật ba chiều… không chỉ tạo hứng thú mà còn phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Trong tất cả các bài học trên, học sinh đều phải tiến hành các bước như trình bày ý tưởng, trao đổi, thảo luận... Những hoạt động này giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, đối thoại, và chia sẻ. Nói cách khác, quá trình tác động trao đổi thông tin, cảm xúc qua lại giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên sẽ rèn luyện kỹ năng, năng lực giao tiếp của học sinh.
Sự tham gia tích cực vào các bài học sẽ giúp học sinh trở nên tự tin hơn, tiếp thu kinh nghiệm của người xung quanh để trở thành vốn sống, kinh nghiệm của bản thân, giúp hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. Sự tiếp xúc và tranh luận giữa các học sinh trong lớp tạo nên sự ganh đua, một sự kích thích, tạo cảm hứng và động lực học tập cho mỗi học sinh. Đồng thời, học sinh cũng được học và phát triển các kỹ năng trong giao tiếp với bạn bè, với giáo viên, biết đồng cảm trong giao tiếp, biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, biết cùng suy nghĩ với đối tượng giao tiếp để tạo ra sự “đồng điệu”.
Năng lực đánh giá
Ngoài những năng lực nói trên, môn mỹ thuật còn giúp học sinh phát triển năng lực đánh giá. Bài 1 trong cuốn Appreciating Art 5, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, hướng dẫn học sinh từng bước cảm thụ về các vật xung quanh, được mở đầu như sau:
Rất nhiều thứ xung quanh chúng ta dường như được cấu tạo từ nét - không có gì khác! Thẳng hay quanh co, chúng uốn lượn, xoắn vặn, cuộn tròn, hoặc biến mất trong không gian.
Bạn có thể nghĩ xem những gì như đất, không khí, và nước dường như được làm từ những loại đường nét khác? Những chuyển động nào mà các đường đó có thể gợi ra?
Vậy về những đồ vật bạn đang sử dụng thì sao? Bạn có thể phân biệt được loại đường nét nào của mỗi loại? Bạn có thể vẽ hướng và chuyển động của nó trong không gian?6
Trong ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng học sinh sẽ nhận biết về nét, đồng thời đánh giá được sự biểu hiện các loại nét. Với yêu cầu của mỗi bài học về việc khám phá, nhận biết, và cảm thụ các yếu tố tạo hình, học sinh được rèn luyện năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Bên cạnh đó, những bài tập về thưởng thức nghệ thuật cũng sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của mỗi học sinh, chẳng hạn học sinh sẽ hiểu được rằng khi nghệ sĩ vẽ tranh, họ làm điều đó vì có lý do hoặc mục đích. Nói cách khác, nghệ sĩ kể cho chúng ta nghe một câu chuyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Một số hình vẽ đặc biệt để kể chuyện trong khi các hình khác là để giải thích câu chuyện. Học sinh cũng sẽ thấy được sự khác nhau về cách biểu hiện hình thức nghệ thuật của nghệ sĩ. Đặc biệt với những câu hỏi thảo luận để học sinh được tự do trình bày cảm nhận của mình về nội dung hay hình thức tác phẩm nghệ thuật sẽ phát huy khả năng tự đánh giá vấn đề của người học. Tóm lại, tất cả những kiến thức, nội dung, hoạt động đa dạng khi được tích hợp trong môn mỹ thuật sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của người học.
3. Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Nhìn từ kinh nghiệm thế giới có thể thấy những lợi ích của môn mỹ thuật đối với học sinh trong việc phát triển các năng lực cá nhân. Tuy nhiên, trong nhiều năm công việc dạy và học mỹ thuật ở Việt Nam chưa thực sự khơi được tiềm năng sáng tạo, kích thích trí tưởng tượng, nuôi dưỡng niềm đam mê của học sinh. Thậm chí, trong một số trường hợp do cách dạy cứng nhắc khiến một số em không thích hay sợ học mỹ thuật. Sau đây là ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên và chương trình sách giáo khoa mỹ thuật cấp phổ thông ở Việt Nam.
Ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên
Từ trước đến nay, đa phần các ý kiến thường tập trung phê phán về chương trình, cũng như phương pháp dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song, nguyên nhân của việc giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam chưa phát triển còn do thiếu đội ngũ giáo viên dạy mỹ thuật giỏi có khả năng tổ chức những buổi học sinh động, hấp dẫn, và hiệu quả. Thực tế cho thấy, một số giáo viên thường chú trọng đến kỹ thuật mà ít chú ý đến sự biểu hiện cảm xúc của học sinh thông qua các bài tập vẽ. Điều này đôi khi xuất phát từ hạn chế của chính người giáo viên khi lấy tiêu chuẩn vẽ giống, vẽ đúng làm khuôn mẫu. Quá trình giảng dạy cho các sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mỹ thuật (hiện là những giáo viên dạy mỹ thuật ở phổ thông) của cả Hà Nội và một số địa phương, có thể thấy những thiếu hụt kiến thức quan trọng về lịch sử nghệ thuật, phê bình mỹ thuật, và sáng tạo nghệ thuật. Do đấy, dù có giáo trình, chương trình, bài học thiết kế tốt như những ví dụ đã nêu của thế giới nhưng nếu thiếu người giáo viên có kiến thức và năng lực sư phạm thì sẽ khó thu được kết quả như mong muốn. Những bài học trong Discipline-Based Art education: A Curriculum Sampler của Kay Alexander và Michael Day đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức nhất định để chuyển tải và phát huy sự tích hợp bốn lĩnh vực lịch sử nghệ thuật, phê bình nghệ thuật, mỹ học, và sáng tạo nghệ thuật.
Để giáo dục mỹ thuật thực sự đóng góp vào việc phát triển toàn diện, thì mỗi giáo viên trước hết cũng cần phải có kiến thức toàn diện. Bởi, nếu người thầy không có kiến thức về lịch sử nghệ thuật thì sao có thể hiểu được vẻ đẹp, phong cách nghệ thuật, mục đích của mỗi giai đoạn nghệ thuật trong lịch sử mỹ thuật của nhân loại để từ đó có thể gợi mở, truyền đạt, hay giúp học sinh trong quá trình học môn mỹ thuật ở phổ thông; nếu người thầy không có kiến thức về thẩm mỹ học thì làm sao có thể giúp học sinh nâng cao năng lực thẩm mỹ, cũng như khuyến khích học sinh tưởng tượng, tự do trong biểu hiện những cảm xúc cá nhân, cảm thụ tác phẩm; và nếu người thầy không hiểu được bản chất của nghệ thuật là gì thì sao có thể đánh thức tiềm năng sáng tạo trong mỗi người học? Hiện nay, chúng ta chủ trương tăng cường phương pháp dạy học tích cực: gợi mở, vấn đáp, hướng dẫn trong dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song điều quan trọng là càng tăng cường phương pháp dạy mới thì người giáo viên mỹ thuật lại càng cần phải nâng cao hơn nữa kiến thức về mỹ thuật cũng như những bộ môn liên quan.
Ý kiến đóng góp về chương trình, giáo trình
Cho đến nay, nỗ lực hỗ trợ của các tổ chức giáo dục và quốc gia trên thế giới đối với giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam không phải là nhỏ, đặc biệt là trong xây dựng chương trình và giáo trình. Năm 1999, SEAMEO-SPAFA (Thái Lan) đã tổ chức Workshop về phát triển chương trình giáo dục mỹ thuật và các module bài học cho các trường tiểu học ở khu vực Đông Nam Á. Các chuyên gia đến từ Canada, Philipines, Úc… tập huấn các phương pháp mới trong giáo dục mỹ thuật, đồng thời cập nhật những nghiên cứu mới nhất về chương trình và giáo trình. Tuy nhiên, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan mà tác động của các workshop như vừa nêu trên vẫn chưa đem đến những thay đổi căn bản cho giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam. Chẳng hạn, đa số các workshop có qui mô nhỏ, chỉ một số ít người được tiếp cận với chương trình, giáo trình và phương pháp mới, vì thế tác động và hiệu quả chưa cao. So với các dự án và tập huấn về giáo dục mỹ thuật trước kia, thì Dự án Hỗ trợ giáo dục mỹ thuật cấp tiểu học do các chuyên gia Đan Mạch tư vấn hoạt động trong những năm gần đây đã tác động tích cực, rõ rệt trên diện rộng đối với giáo viên và học sinh. Hiệu quả giáo dục và ưu điểm của phương pháp mới trong dạy học mỹ thuật cấp tiểu học đã được chứng minh thông qua sự vận dụng nội dung và kỹ thuật dạy học của các chuyên gia Đan Mạch tại 6 tỉnh và thành phố. Dẫu vậy, sẽ là sự thiếu đồng bộ và toàn diện nếu như chương trình, giáo trình vẫn bất cập. Hiện nay, từ tên bài học cho đến sách giáo khoa về giáo dục mỹ thuật của chúng ta vẫn cứ khô cứng, thiếu định hướng và mang nặng lý thuyết. Hãy thử so sánh:
Về tên sách :
Ở Việt Nam Ở Philipines7
Vở tập vẽ 1 Discovering Art 1 (Khám phá nghệ thuật 1)
Vở tập vẽ 2 Creating Art 2 (Sáng tạo nghệ thuật 2)
Vở tập vẽ 3 Expresing Art 3 (Biểu hiện nghệ thuật 3)
Mĩ thuật 4 Experiencing Art 4 (Trải nghiệm nghệ thuật 4)
Mĩ thuật 5 Appreciating Art 5 (Đánh giá nghệ thuật 5)
Về tên bài học trong sách Mĩ thuật 5 của Việt Nam:
Bài 1: Thưởng thức mĩ thuật Xem tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
Bài 2: Vẽ trang trí Màu sắc trong trang trí
Bài 3: Vẽ tranh Đề tài trường em
Bài 4: Vẽ theo mẫu Khối hình hộp và khối hình cầu
Về tên bài học trong sách Experiencing Art 48 (Trải nghiệm nghệ thuật 4) của Philipines.
Bài 1: Không gian (Unit 1. Space)
Bài 2: Đường nét và hình dáng (Unit 2: Line and Shape)
Bài 3: Nhịp điệu và kết cấu (Unit 3: Tone and Texture)
Bài 4: Màu sắc và bố cục (Color and Composition)
Dễ nhận thấy ở các ví dụ trên, từ bài học cho đến tên sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines đều thống nhất về nội dung và mục đích. Tên sách là “Trải nghiệm nghệ thuật” thì các bài học đều hướng đến các nội dung về các yếu tố tạo hình. Tương tự, chủ đề các bài học mỹ thuật trongDiscipline - Based Art Education: Acurriculum Sampler vừa có nội dung vừa kích thích sự tìm tòi của học sinh, thí dụ như: Discovering and Producing (Khám phá và sáng tạo các hình), Who are architects? What do they do? (Kiến trúc sư là ai? Họ làm nghề gì?)…
Ngoài ra, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông cũng cần có sự kết hợp với giáo dục di sản. Chẳng hạn, Bảo tàng Vaster Bottom (Thụy Điển) có chương trình giáo dục nghệ thuật và di sản hấp dẫn, do đấy, thu hút nhiều học sinh của các trường đến tham dự. Một trong những bài học thú vị là học sinh pha trộn màu tự nhiên bằng cành cây, sau đó vẽ trên đá. Như vậy, khi tham gia học sinh sẽ cùng lúc học về mỹ thuật và học về nghệ thuật vẽ trên đá của người Sami. Giáo dục nghệ thuật khi được kết hợp với kiến thức về di sản sẽ góp phần làm nội dung bài học trở nên phong phú hơn, qua đó đánh thức được tiềm năng sáng tạo của người học.
***
Với mục tiêu giáo dục toàn diện, cùng với các môn học khác môn mỹ thuật góp phần trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ của học sinh. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, chỉ khi chương trình, giáo trình được xây dựng hợp lý, hướng đến sự phát triển các năng lực cá nhân của người học thì mới phát huy hiệu quả và mang đến lợi ích cho người học. Vì thế, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông ở Việt Nam cần được nghiên cứu, đổi mới sao cho có thể tích hợp các hoạt động, nội dung để phát triển các năng lực cá nhân của mỗi học sinh. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi có kiến thức và năng lực sư phạm mỹ thuật.
B.T.T.M
Bài tham luận "Hội thảo Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào điều kiện của Việt Nam" do Bộ Giáo dục và Trẻ em Đan Mạch kết hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam tổ chức ngày 10, 11, 12 tháng 12 năm 2012, tại Hà Nội.
Chú thích:
- Cấu trúc bài học gồm các phần: Mục tiêu (Objective), Thời gian (Time), Từ vựng (Vocabulary), Kế hoạch và chuẩn bị (Planning and Preparation), Giới thiệu chiến lược và động cơ (Instructional Strategies and Motivation), Hướng dẫn (Instroduction), Hoạt động sáng tạo (Production Activities), Đánh giá (Evaluation), Các hoạt động liên quan (Related Activities). Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
- Oska Kokoschka (1886 - 1990), họa sĩ người Áo.
- Piere August Renoir (1841 - 1919), họa sĩ người Pháp.
- Nicholas Vasilieff (1877 - 1956), họa sĩ người Nga.
- Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
- Nguyên văn trong tiếng Anh:
“So many things around us seem to be made up of pure lines - nothing else! Straight or crooked, they bend, twist, curl, or turn in space.
Can you think of some things on land, air, and water that seem to be made of different kinds of lines? What movement do the lines suggest?
What about the objects that you use? Can you identify the kind of line each has? Will you be able to draw their direction and moverment in space?
Turn the page and see if you can complete the chart on lines.” Tr.1.
- Bộ sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines bao gồm: Exploring Art (Preschool), Discovering Art 1, Creating Art 2, Expresing Art 3, Experiencing Art 4, Appreciating Art 5, Understanding Art 6 do nhiều tác giả thực hiện. Philipines - Art - Educations - Association.
- Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.
Tài liệu tham khảo:
Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.
Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra sự ảnh hưởng tích cực của nghệ thuật tới sự hình thành nhân cách, trí tuệ con người. Từ múa, âm nhạc cho tới nghệ thuật tạo hình, các bộ môn nghệ thuật cung cấp những phương tiện độc đáo để biểu hiện, nắm bắt được cảm xúc và niềm đam mê, cho phép khám phá các nền văn hóa và sáng tạo những ý tưởng mới. Với mục đích đóng góp vào sự phát triển giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam, bài viết tập trung xem xét ba vấn đề, đó là: 1) Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật, 2) Các năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học môn mỹ thuật nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, 3) Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay.
1. Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật
Năm 2002, Tổng thống Bush ký Đạo luật giáo dục No Child Left Behind (Không để trẻ em nào ở phía sau) tại Hamilton, Ohio, Mỹ. Một trong những điều khoản của Đạo luật này là yêu cầu mọi học sinh Mỹ đạt mức thông thạo về đọc và làm toán, tiêu chuẩn mà nhiều người từng gọi là không tưởng. Do trọng tâm chính của No Child Left Behind là kỹ năng đọc, viết và toán học, đồng thời bởi sự suy thoái kinh tế nên một số trường đã cắt giảm ngân sách và thời gian đối với các môn học như lịch sử, nghệ thuật, và âm nhạc để cung cấp nguồn lực cho toán học. Dự luật No Child Left Behindđã ảnh hưởng đến các môn nghệ thuật trong chương trình phổ thông ở Mỹ, làm dấy lên những lo ngại về sự hạn chế các cơ hội cho trẻ em trải nghiệm những khám phá và quan tâm đến sáng tạo. Năm 2010, Tổng thống Obama kêu gọi viết lại luật giáo dục No Child Left Behind, với hy vọng các trường sẽ có một chương trình giảng dạy phong phú về nghệ thuật, lịch sử, khoa học, và các môn học khác.
Thực tế là, nghệ thuật bị xếp là thứ yếu giữa toán học, vật lý, hóa học và một số môn học khác. Chính vì thế, trong phản ứng với việc xem nhẹ giáo dục nghệ thuật, một số nhà giáo dục đã nghiên cứu về chương trình Học thông qua nghệ thuật (Learning Through Art). Các nghiên cứu cho thấy, giáo dục nghệ thuật giúp mở rộng cách nhìn của học sinh về thế giới, khuyến khích sự phát triển các kỹ năng như giải quyết vấn đề, nâng cao nhận thức, và giúp học sinh học các môn học khác tốt hơn. Trong một nghiên cứu bắt đầu từ năm 1993 của Đại học California tại Irvine các nhà nghiên cứu phát hiện ra điều lý thú về tác động của nghệ thuật trong lĩnh vực giáo dục. Học sinh từng học chơi đàn piano đạt kết quả trung bình cao hơn trong các bài kiểm tra kỹ năng quan trọng về toán học và khoa học. Sau sáu tháng chơi piano, với trẻ ở độ tuổi từ ba đến năm đã cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các bài kiểm tra vật lý không gian. Các nhà nghiên cứu Gordon Shaw và Frances Rauscher thuộc Đại học Wisconsin tại Oshkosh, kiểm tra sinh viên đại học về thực hành suy luận trong những điều kiện không gian khác nhau; một nhóm thiền trong im lặng, một nhóm nghe nhạc thư giãn và nhóm thứ ba cho nghe 10 phút bản Sonata của Mozart. Kết quả, nhóm cuối cùng ghi được 8-9 điểm cao hơn các nhóm khác. Shaw và Rauscher gọi đây là "Hiệu lực Mozart". Tại sao nghệ thuật lại làm nên sự khác biệt trong việc học và nhận thức thế giới? Các nhà nghiên cứu như Shaw và Rauscher tin rằng âm nhạc thực sự kích thích các hình thức và thường xuyên tạo kết nối mới trong não của trẻ em. Năm 1983, Giáo sư Howard Gardner ở Đại học Harvard giới thiệu rộng rãi lý thuyết "Đa trí tuệ." Gardner tin rằng có ít nhất tám hình thức trí tuệ: ngôn ngữ, logic, âm nhạc, không gian, nhân học, tự nhiên, xã hội và tâm lý. Với quan niệm tiếp xúc với sáng tạo của các bậc thầy quan trọng như Rembrandt và Picasso, Mozart và Duke Ellington, Shakespeare và Toni Morrison giúp nuôi dưỡng trí tuệ. Gardner ủng hộ khuyến khích mỗi trẻ em ít nhất làm quen với một hình thức nghệ thuật, không chỉ như một phương tiện sáng tạo, mà còn như một cách để học hỏi về thế giới.
Như vậy, học tập nghệ thuật không chỉ giúp phát triển tư duy sáng tạo và giáo dục toàn diện với các yếu tố thẩm mỹ mà còn đem lại niềm vui, giúp học sinh tiếp thu các môn học khác hiệu quả hơn. Dưới đây, bài viết sẽ tập trung đi sâu trình bày về những năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật ở phổ thông.
2. Các năng lực cá nhân được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật - Nhìn từ kinh nghiệm thế giới
Các hoạt động trong môn học mỹ thuật khi được xây dựng hợp lý sẽ cung cấp cho học sinh những trải nghiệm học tập thú vị giúp khám phá bản thân và thế giới. Giáo dục mỹ thuật ở một số nước cho thấy những hiệu quả tuyệt vời về sự giáo dục toàn diện, phát huy các năng lực của người học thông qua các môn học nghệ thuật trong nhà trường như:
- Năng lực nhận thức
- Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
- Năng lực biểu đạt
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực đánh giá
Năng lực nhận thức
Nhờ những trải nghiệm trong quá trình học môn mỹ thuật từ thấp đến cao, học sinh sẽ không chỉ được nâng cao năng lực nhận thức về tạo hình, mà còn cả về các kiến thức lịch sử, văn hóa và xã hội. Về kiến thức mỹ thuật, học sinh có thể tìm hiểu tên gọi màu sắc, hình dạng, chất liệu như biết được sự tạo thành màu mới từ sự pha trộn hai màu cơ bản với nhau, biết cách quan sát qua đó nắm bắt được hình dạng và màu sắc của đối tượng, hình thành và phát triển nhận thức về nghệ thuật ba chiều trong không gian, nắm được một số chất liệu cơ bản sử dụng trong môn học mỹ thuật... Bên cạnh đó, nghệ thuật là công cụ xuất sắc cho việc giảng dạy kiến thức. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó thì cần có chương trình, phương pháp dạy và học thích hợp đối với mỗi lứa tuổi. Công trìnhDiscipline - Based Art education: Acurriculum Sampler1 do Kay Alexander và Michael Day biên soạn năm 1992 cung cấp các ví dụ về những bài học mỹ thuật giúp học sinh nâng cao nhận thức, chẳng hạn, chương trình học dành cho học sinh lớp 2 với năm bài học với các chủ đề như: Ai cũng cần được chăm sóc (Everyone Needs to Care), Mọi người đều cần ai đó (Everybody Needs Somebody), Chia sẻ (Sharing), Cảm xúc (Feelings), và Ngày sinh nhật của mọi người (Everybody’s Birthday). Các chủ đề nói trên được lựa chọn từ sự nghiên cứu về nhu cầu và tâm lý của học sinh. Cả năm bài học đều quan tâm đến việc phát triển năng lực nhận thức thông qua sự tích hợp kiến thức của bốn lĩnh vực: lịch sử nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, phê bình nghệ thuật và mỹ học. Bài học Ai cũng cần được chăm sóc chỉ yêu cầu vật liệu vẽ là bút chì, sáp màu, và giấy, thêm vào đó là ba bức tranh của danh họa thế giới để tham khảo: Em gái với búp bê (Girl with Doll) của Oska Kokoschka2, Thiếu nữ với con mèo (Woman with a Cat) của Piere August Renoir3, và Thiếu nữ với con chó trắng (Woman with White Dog) của Nicholas Vasilieff4, song bài học lại đem đến những hiệu quả tích cực đối với mỗi học sinh. Mục đích của bài học tập trung vào bốn vấn đề: một là, tạo sự kết nối giữa cảm xúc của học sinh về sự quan tâm, chăm sóc và sự biểu hiện những cảm xúc này trong tranh các họa sĩ bậc thầy; hai là, giải thích chủ đề sự quan tâm về điều gì hay ai đó như sự biểu hiện trong tác phẩm hội họa; ba là, học sinh sáng tạo những bức vẽ của mình về chủ đề mà mình quan tâm; bốn là, tạo sự hưởng ứng về thẩm mỹ giữa tác phẩm nghệ thuật và bài vẽ của mình. Như vậy, nội dung bài học chú ý đến sự nhạy cảm của học sinh ở cấp tiểu học về mối quan hệ trong xã hội. Các bước trong bài học giúp học sinh tiếp thu được những kiến thức về sự biểu hiện cảm xúc thông qua nghệ thuật của những nền văn hóa khác, đồng thời nhờ vào quan sát và trải nghiệm trong bài học học sinh phát triển năng lực nhận thức.
Qua ví dụ vừa nêu có thể thấy rằng, môn mỹ thuật sẽ giúp học sinh nâng cao năng lực nhận thức, đạt được những hiểu biết quan trọng về họa sĩ (kiến thức về lịch sử nghệ thuật), phân tích cảm xúc (phê bình nghệ thuật), cảm nhận về thẩm mỹ (mỹ học), biểu hiện cảm xúc cá nhân thông qua việc vẽ tranh (sáng tạo).
Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
Những trải nghiệm thực hành trong môn mỹ thuật như vẽ tranh, nặn đồ vật, cắt dán… sẽ giúp học sinh trở nên khéo léo hơn nhờ đó phát triển năng lực kỹ năng và kỹ thuật. Quá trình học môn mỹ thuật, học sinh học cách biểu hiện cảm xúc bằng đường nét, màu sắc, hình khối mà dần dần có khả năng sử dụng các kỹ thuật khác nhau như vẽ nét, hình, tô màu trên giấy, tạo hình và bố cục sản phẩm mỹ thuật 3 chiều, kỹ năng cắt, dán… Chỉ riêng với vẽ nét, học sinh sẽ rèn luyện những kỹ thuật thể hiện các loại nét khác như như nét thanh, nét thô; hoặc với vẽ hình được rèn luyện kỹ năng sử dụng bút để xây dựng các hình có khả năng diễn đạt cảm xúc; pha trộn các màu cơ bản để tạo thành mầu mới hay quá trình tạo khối từ các vật liệu khác nhau, học sinh sẽ biết cách hoàn thiện và phát triển vật liệu thành sản phẩm mỹ thuật. Ngoài ra còn phải kể đến các kỹ thuật xử lý vật liệu, chất liệu trong quá trình thực hành các bài tập mỹ thuật.
Môn mỹ thuật là môn học thiên nhiều về thực hành, thông qua thực hành để nắm bắt kiến thức, do vậy học vẽ và tạo hình ba chiều sẽ giúp học sinh phát triển được năng lực kỹ năng và kỹ thuật. John Dewey (1859-1952), nhà giáo dục lỗi lạc với gia tài tư tưởng bao trùm đời sống trí tuệ nước Mỹ thế kỷ XX, đã đặt nền tảng triết học cho giáo dục thực nghiệm. Theo đó, phương pháp truyền đạt kiến thức sinh động và cảm hứng đối với người học là những trải nghiệm của tất cả các giác quan, thông qua các bài học có sự kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng thực hành, nhờ đó phát huy được năng lực kỹ năng và kỹ thuật của người học.
Năng lực biểu đạt
Nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện cách nhìn, lối nghĩ về thế giới. Thông qua việc vẽ tranh, nặn đồ vật, tạo hình sản phẩm trong môn học mỹ thuật, học sinh sẽ phát triển năng lực biểu đạt cảm xúc, suy nghĩ, cách nhìn của mình về gia đình, bạn bè, nhà trường và thế giới xung quanh. Giáo dục mỹ thuật ở các nước tiên tiến cho thấy, các bài học theo chủ đề kết hợp với phương pháp học thảo luận mở ra cơ hội giảm thiểu áp lực của việc tiếp nhận thông tin một chiều từ giáo viên, kích thích tư duy sáng tạo, năng lực biểu đạt, trình bày vấn đề, giải quyết vấn đề của người học. Nói cách khác, giờ học mỹ thuật khi được tổ chức khoa học và hợp lý sẽ kích thích các giác quan và giúp học sinh phát triển năng lực biểu đạt. Lấy thí dụ, bài 4 Đường nét, Hình khối, và màu sắc (Lines, Shapes, and Colors) trong cuốn Creating Art 25, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, không chỉ giúp học sinh học về các yếu tố tạo hình cơ bản mà còn giúp học sinh học cách biểu hiện cảm xúc và trình bày ý tưởng. Trong phần bài tập yêu cầu học sinh nghĩ về từ “Giận” (Anger), tiếp đó là câu hỏi “Khi bạn nghĩ đến từ này, màu gì xuất hiện trong tâm trí bạn? Hãy sử dụng màu đó để vẽ một đường nét và hình để biểu hiện sự giận dữ.” Tương tự, bài tập tiếp theo yêu cầu học sinh tìm màu biểu đạt về hòa bình, sử dụng màu đó để vẽ đường nét và hình biểu hiện về hòa bình.
Như vậy, học sinh có thể thông qua các bài tập mỹ thuật học cách trình bày cảm xúc, ước mơ, cách nhìn nhận của mình về sự kiện hay con người. Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng giáo dục nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng nuôi dưỡng sự phát triển não bộ, đặc biệt là chức năng não phải, về sáng tạo và trực quan. Điều quan trọng là giáo dục nghệ thuật dạy tư duy hơn là nhận câu trả lời đúng, chính xác. Trên cơ sở các bài tập mỹ thuật, học sinh tìm hiểu vấn đề, và trình bày cách giải thích theo cách riêng bằng đường nét, hình khối và màu sắc… Học sinh không chỉ phát triển năng lực biểu đạt thông qua phương tiện, ngôn ngữ mỹ thuật mà còn cả năng lực biểu đạt ngôn ngữ, nét mặt, cử chỉ, hành vi.
Năng lực giao tiếp
Các mô hình bài học được thiết kế theo kiểu vẽ cùng nhau, xây dựng câu chuyện, trình diễn, sắm vai, tạo hình mỹ thuật ba chiều… không chỉ tạo hứng thú mà còn phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Trong tất cả các bài học trên, học sinh đều phải tiến hành các bước như trình bày ý tưởng, trao đổi, thảo luận... Những hoạt động này giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, đối thoại, và chia sẻ. Nói cách khác, quá trình tác động trao đổi thông tin, cảm xúc qua lại giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên sẽ rèn luyện kỹ năng, năng lực giao tiếp của học sinh.
Sự tham gia tích cực vào các bài học sẽ giúp học sinh trở nên tự tin hơn, tiếp thu kinh nghiệm của người xung quanh để trở thành vốn sống, kinh nghiệm của bản thân, giúp hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. Sự tiếp xúc và tranh luận giữa các học sinh trong lớp tạo nên sự ganh đua, một sự kích thích, tạo cảm hứng và động lực học tập cho mỗi học sinh. Đồng thời, học sinh cũng được học và phát triển các kỹ năng trong giao tiếp với bạn bè, với giáo viên, biết đồng cảm trong giao tiếp, biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, biết cùng suy nghĩ với đối tượng giao tiếp để tạo ra sự “đồng điệu”.
Năng lực đánh giá
Ngoài những năng lực nói trên, môn mỹ thuật còn giúp học sinh phát triển năng lực đánh giá. Bài 1 trong cuốn Appreciating Art 5, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, hướng dẫn học sinh từng bước cảm thụ về các vật xung quanh, được mở đầu như sau:
Rất nhiều thứ xung quanh chúng ta dường như được cấu tạo từ nét - không có gì khác! Thẳng hay quanh co, chúng uốn lượn, xoắn vặn, cuộn tròn, hoặc biến mất trong không gian.
Bạn có thể nghĩ xem những gì như đất, không khí, và nước dường như được làm từ những loại đường nét khác? Những chuyển động nào mà các đường đó có thể gợi ra?
Vậy về những đồ vật bạn đang sử dụng thì sao? Bạn có thể phân biệt được loại đường nét nào của mỗi loại? Bạn có thể vẽ hướng và chuyển động của nó trong không gian?6
Trong ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng học sinh sẽ nhận biết về nét, đồng thời đánh giá được sự biểu hiện các loại nét. Với yêu cầu của mỗi bài học về việc khám phá, nhận biết, và cảm thụ các yếu tố tạo hình, học sinh được rèn luyện năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Bên cạnh đó, những bài tập về thưởng thức nghệ thuật cũng sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của mỗi học sinh, chẳng hạn học sinh sẽ hiểu được rằng khi nghệ sĩ vẽ tranh, họ làm điều đó vì có lý do hoặc mục đích. Nói cách khác, nghệ sĩ kể cho chúng ta nghe một câu chuyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Một số hình vẽ đặc biệt để kể chuyện trong khi các hình khác là để giải thích câu chuyện. Học sinh cũng sẽ thấy được sự khác nhau về cách biểu hiện hình thức nghệ thuật của nghệ sĩ. Đặc biệt với những câu hỏi thảo luận để học sinh được tự do trình bày cảm nhận của mình về nội dung hay hình thức tác phẩm nghệ thuật sẽ phát huy khả năng tự đánh giá vấn đề của người học. Tóm lại, tất cả những kiến thức, nội dung, hoạt động đa dạng khi được tích hợp trong môn mỹ thuật sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của người học.
3. Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Nhìn từ kinh nghiệm thế giới có thể thấy những lợi ích của môn mỹ thuật đối với học sinh trong việc phát triển các năng lực cá nhân. Tuy nhiên, trong nhiều năm công việc dạy và học mỹ thuật ở Việt Nam chưa thực sự khơi được tiềm năng sáng tạo, kích thích trí tưởng tượng, nuôi dưỡng niềm đam mê của học sinh. Thậm chí, trong một số trường hợp do cách dạy cứng nhắc khiến một số em không thích hay sợ học mỹ thuật. Sau đây là ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên và chương trình sách giáo khoa mỹ thuật cấp phổ thông ở Việt Nam.
Ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên
Từ trước đến nay, đa phần các ý kiến thường tập trung phê phán về chương trình, cũng như phương pháp dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song, nguyên nhân của việc giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam chưa phát triển còn do thiếu đội ngũ giáo viên dạy mỹ thuật giỏi có khả năng tổ chức những buổi học sinh động, hấp dẫn, và hiệu quả. Thực tế cho thấy, một số giáo viên thường chú trọng đến kỹ thuật mà ít chú ý đến sự biểu hiện cảm xúc của học sinh thông qua các bài tập vẽ. Điều này đôi khi xuất phát từ hạn chế của chính người giáo viên khi lấy tiêu chuẩn vẽ giống, vẽ đúng làm khuôn mẫu. Quá trình giảng dạy cho các sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mỹ thuật (hiện là những giáo viên dạy mỹ thuật ở phổ thông) của cả Hà Nội và một số địa phương, có thể thấy những thiếu hụt kiến thức quan trọng về lịch sử nghệ thuật, phê bình mỹ thuật, và sáng tạo nghệ thuật. Do đấy, dù có giáo trình, chương trình, bài học thiết kế tốt như những ví dụ đã nêu của thế giới nhưng nếu thiếu người giáo viên có kiến thức và năng lực sư phạm thì sẽ khó thu được kết quả như mong muốn. Những bài học trong Discipline-Based Art education: A Curriculum Sampler của Kay Alexander và Michael Day đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức nhất định để chuyển tải và phát huy sự tích hợp bốn lĩnh vực lịch sử nghệ thuật, phê bình nghệ thuật, mỹ học, và sáng tạo nghệ thuật.
Để giáo dục mỹ thuật thực sự đóng góp vào việc phát triển toàn diện, thì mỗi giáo viên trước hết cũng cần phải có kiến thức toàn diện. Bởi, nếu người thầy không có kiến thức về lịch sử nghệ thuật thì sao có thể hiểu được vẻ đẹp, phong cách nghệ thuật, mục đích của mỗi giai đoạn nghệ thuật trong lịch sử mỹ thuật của nhân loại để từ đó có thể gợi mở, truyền đạt, hay giúp học sinh trong quá trình học môn mỹ thuật ở phổ thông; nếu người thầy không có kiến thức về thẩm mỹ học thì làm sao có thể giúp học sinh nâng cao năng lực thẩm mỹ, cũng như khuyến khích học sinh tưởng tượng, tự do trong biểu hiện những cảm xúc cá nhân, cảm thụ tác phẩm; và nếu người thầy không hiểu được bản chất của nghệ thuật là gì thì sao có thể đánh thức tiềm năng sáng tạo trong mỗi người học? Hiện nay, chúng ta chủ trương tăng cường phương pháp dạy học tích cực: gợi mở, vấn đáp, hướng dẫn trong dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song điều quan trọng là càng tăng cường phương pháp dạy mới thì người giáo viên mỹ thuật lại càng cần phải nâng cao hơn nữa kiến thức về mỹ thuật cũng như những bộ môn liên quan.
Ý kiến đóng góp về chương trình, giáo trình
Cho đến nay, nỗ lực hỗ trợ của các tổ chức giáo dục và quốc gia trên thế giới đối với giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam không phải là nhỏ, đặc biệt là trong xây dựng chương trình và giáo trình. Năm 1999, SEAMEO-SPAFA (Thái Lan) đã tổ chức Workshop về phát triển chương trình giáo dục mỹ thuật và các module bài học cho các trường tiểu học ở khu vực Đông Nam Á. Các chuyên gia đến từ Canada, Philipines, Úc… tập huấn các phương pháp mới trong giáo dục mỹ thuật, đồng thời cập nhật những nghiên cứu mới nhất về chương trình và giáo trình. Tuy nhiên, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan mà tác động của các workshop như vừa nêu trên vẫn chưa đem đến những thay đổi căn bản cho giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam. Chẳng hạn, đa số các workshop có qui mô nhỏ, chỉ một số ít người được tiếp cận với chương trình, giáo trình và phương pháp mới, vì thế tác động và hiệu quả chưa cao. So với các dự án và tập huấn về giáo dục mỹ thuật trước kia, thì Dự án Hỗ trợ giáo dục mỹ thuật cấp tiểu học do các chuyên gia Đan Mạch tư vấn hoạt động trong những năm gần đây đã tác động tích cực, rõ rệt trên diện rộng đối với giáo viên và học sinh. Hiệu quả giáo dục và ưu điểm của phương pháp mới trong dạy học mỹ thuật cấp tiểu học đã được chứng minh thông qua sự vận dụng nội dung và kỹ thuật dạy học của các chuyên gia Đan Mạch tại 6 tỉnh và thành phố. Dẫu vậy, sẽ là sự thiếu đồng bộ và toàn diện nếu như chương trình, giáo trình vẫn bất cập. Hiện nay, từ tên bài học cho đến sách giáo khoa về giáo dục mỹ thuật của chúng ta vẫn cứ khô cứng, thiếu định hướng và mang nặng lý thuyết. Hãy thử so sánh:
Về tên sách :
Ở Việt Nam Ở Philipines7
Vở tập vẽ 1 Discovering Art 1 (Khám phá nghệ thuật 1)
Vở tập vẽ 2 Creating Art 2 (Sáng tạo nghệ thuật 2)
Vở tập vẽ 3 Expresing Art 3 (Biểu hiện nghệ thuật 3)
Mĩ thuật 4 Experiencing Art 4 (Trải nghiệm nghệ thuật 4)
Mĩ thuật 5 Appreciating Art 5 (Đánh giá nghệ thuật 5)
Về tên bài học trong sách Mĩ thuật 5 của Việt Nam:
Bài 1: Thưởng thức mĩ thuật Xem tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
Bài 2: Vẽ trang trí Màu sắc trong trang trí
Bài 3: Vẽ tranh Đề tài trường em
Bài 4: Vẽ theo mẫu Khối hình hộp và khối hình cầu
Về tên bài học trong sách Experiencing Art 48 (Trải nghiệm nghệ thuật 4) của Philipines.
Bài 1: Không gian (Unit 1. Space)
Bài 2: Đường nét và hình dáng (Unit 2: Line and Shape)
Bài 3: Nhịp điệu và kết cấu (Unit 3: Tone and Texture)
Bài 4: Màu sắc và bố cục (Color and Composition)
Dễ nhận thấy ở các ví dụ trên, từ bài học cho đến tên sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines đều thống nhất về nội dung và mục đích. Tên sách là “Trải nghiệm nghệ thuật” thì các bài học đều hướng đến các nội dung về các yếu tố tạo hình. Tương tự, chủ đề các bài học mỹ thuật trongDiscipline - Based Art Education: Acurriculum Sampler vừa có nội dung vừa kích thích sự tìm tòi của học sinh, thí dụ như: Discovering and Producing (Khám phá và sáng tạo các hình), Who are architects? What do they do? (Kiến trúc sư là ai? Họ làm nghề gì?)…
Ngoài ra, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông cũng cần có sự kết hợp với giáo dục di sản. Chẳng hạn, Bảo tàng Vaster Bottom (Thụy Điển) có chương trình giáo dục nghệ thuật và di sản hấp dẫn, do đấy, thu hút nhiều học sinh của các trường đến tham dự. Một trong những bài học thú vị là học sinh pha trộn màu tự nhiên bằng cành cây, sau đó vẽ trên đá. Như vậy, khi tham gia học sinh sẽ cùng lúc học về mỹ thuật và học về nghệ thuật vẽ trên đá của người Sami. Giáo dục nghệ thuật khi được kết hợp với kiến thức về di sản sẽ góp phần làm nội dung bài học trở nên phong phú hơn, qua đó đánh thức được tiềm năng sáng tạo của người học.
***
Với mục tiêu giáo dục toàn diện, cùng với các môn học khác môn mỹ thuật góp phần trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ của học sinh. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, chỉ khi chương trình, giáo trình được xây dựng hợp lý, hướng đến sự phát triển các năng lực cá nhân của người học thì mới phát huy hiệu quả và mang đến lợi ích cho người học. Vì thế, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông ở Việt Nam cần được nghiên cứu, đổi mới sao cho có thể tích hợp các hoạt động, nội dung để phát triển các năng lực cá nhân của mỗi học sinh. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi có kiến thức và năng lực sư phạm mỹ thuật.
B.T.T.M
Bài tham luận "Hội thảo Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào điều kiện của Việt Nam" do Bộ Giáo dục và Trẻ em Đan Mạch kết hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam tổ chức ngày 10, 11, 12 tháng 12 năm 2012, tại Hà Nội.
Chú thích:
- Cấu trúc bài học gồm các phần: Mục tiêu (Objective), Thời gian (Time), Từ vựng (Vocabulary), Kế hoạch và chuẩn bị (Planning and Preparation), Giới thiệu chiến lược và động cơ (Instructional Strategies and Motivation), Hướng dẫn (Instroduction), Hoạt động sáng tạo (Production Activities), Đánh giá (Evaluation), Các hoạt động liên quan (Related Activities). Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
- Oska Kokoschka (1886 - 1990), họa sĩ người Áo.
- Piere August Renoir (1841 - 1919), họa sĩ người Pháp.
- Nicholas Vasilieff (1877 - 1956), họa sĩ người Nga.
- Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
- Nguyên văn trong tiếng Anh:
“So many things around us seem to be made up of pure lines - nothing else! Straight or crooked, they bend, twist, curl, or turn in space.
Can you think of some things on land, air, and water that seem to be made of different kinds of lines? What movement do the lines suggest?
What about the objects that you use? Can you identify the kind of line each has? Will you be able to draw their direction and moverment in space?
Turn the page and see if you can complete the chart on lines.” Tr.1.
- Bộ sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines bao gồm: Exploring Art (Preschool), Discovering Art 1, Creating Art 2, Expresing Art 3, Experiencing Art 4, Appreciating Art 5, Understanding Art 6 do nhiều tác giả thực hiện. Philipines - Art - Educations - Association.
- Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.
Tài liệu tham khảo:
Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.
Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra sự ảnh hưởng tích cực của nghệ thuật tới sự hình thành nhân cách, trí tuệ con người. Từ múa, âm nhạc cho tới nghệ thuật tạo hình, các bộ môn nghệ thuật cung cấp những phương tiện độc đáo để biểu hiện, nắm bắt được cảm xúc và niềm đam mê, cho phép khám phá các nền văn hóa và sáng tạo những ý tưởng mới. Với mục đích đóng góp vào sự phát triển giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam, bài viết tập trung xem xét ba vấn đề, đó là: 1) Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật, 2) Các năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học môn mỹ thuật nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, 3) Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay.
1. Ý nghĩa của giáo dục nghệ thuật
Năm 2002, Tổng thống Bush ký Đạo luật giáo dục No Child Left Behind (Không để trẻ em nào ở phía sau) tại Hamilton, Ohio, Mỹ. Một trong những điều khoản của Đạo luật này là yêu cầu mọi học sinh Mỹ đạt mức thông thạo về đọc và làm toán, tiêu chuẩn mà nhiều người từng gọi là không tưởng. Do trọng tâm chính của No Child Left Behind là kỹ năng đọc, viết và toán học, đồng thời bởi sự suy thoái kinh tế nên một số trường đã cắt giảm ngân sách và thời gian đối với các môn học như lịch sử, nghệ thuật, và âm nhạc để cung cấp nguồn lực cho toán học. Dự luật No Child Left Behindđã ảnh hưởng đến các môn nghệ thuật trong chương trình phổ thông ở Mỹ, làm dấy lên những lo ngại về sự hạn chế các cơ hội cho trẻ em trải nghiệm những khám phá và quan tâm đến sáng tạo. Năm 2010, Tổng thống Obama kêu gọi viết lại luật giáo dục No Child Left Behind, với hy vọng các trường sẽ có một chương trình giảng dạy phong phú về nghệ thuật, lịch sử, khoa học, và các môn học khác.
Thực tế là, nghệ thuật bị xếp là thứ yếu giữa toán học, vật lý, hóa học và một số môn học khác. Chính vì thế, trong phản ứng với việc xem nhẹ giáo dục nghệ thuật, một số nhà giáo dục đã nghiên cứu về chương trình Học thông qua nghệ thuật (Learning Through Art). Các nghiên cứu cho thấy, giáo dục nghệ thuật giúp mở rộng cách nhìn của học sinh về thế giới, khuyến khích sự phát triển các kỹ năng như giải quyết vấn đề, nâng cao nhận thức, và giúp học sinh học các môn học khác tốt hơn. Trong một nghiên cứu bắt đầu từ năm 1993 của Đại học California tại Irvine các nhà nghiên cứu phát hiện ra điều lý thú về tác động của nghệ thuật trong lĩnh vực giáo dục. Học sinh từng học chơi đàn piano đạt kết quả trung bình cao hơn trong các bài kiểm tra kỹ năng quan trọng về toán học và khoa học. Sau sáu tháng chơi piano, với trẻ ở độ tuổi từ ba đến năm đã cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các bài kiểm tra vật lý không gian. Các nhà nghiên cứu Gordon Shaw và Frances Rauscher thuộc Đại học Wisconsin tại Oshkosh, kiểm tra sinh viên đại học về thực hành suy luận trong những điều kiện không gian khác nhau; một nhóm thiền trong im lặng, một nhóm nghe nhạc thư giãn và nhóm thứ ba cho nghe 10 phút bản Sonata của Mozart. Kết quả, nhóm cuối cùng ghi được 8-9 điểm cao hơn các nhóm khác. Shaw và Rauscher gọi đây là "Hiệu lực Mozart". Tại sao nghệ thuật lại làm nên sự khác biệt trong việc học và nhận thức thế giới? Các nhà nghiên cứu như Shaw và Rauscher tin rằng âm nhạc thực sự kích thích các hình thức và thường xuyên tạo kết nối mới trong não của trẻ em. Năm 1983, Giáo sư Howard Gardner ở Đại học Harvard giới thiệu rộng rãi lý thuyết "Đa trí tuệ." Gardner tin rằng có ít nhất tám hình thức trí tuệ: ngôn ngữ, logic, âm nhạc, không gian, nhân học, tự nhiên, xã hội và tâm lý. Với quan niệm tiếp xúc với sáng tạo của các bậc thầy quan trọng như Rembrandt và Picasso, Mozart và Duke Ellington, Shakespeare và Toni Morrison giúp nuôi dưỡng trí tuệ. Gardner ủng hộ khuyến khích mỗi trẻ em ít nhất làm quen với một hình thức nghệ thuật, không chỉ như một phương tiện sáng tạo, mà còn như một cách để học hỏi về thế giới.
Như vậy, học tập nghệ thuật không chỉ giúp phát triển tư duy sáng tạo và giáo dục toàn diện với các yếu tố thẩm mỹ mà còn đem lại niềm vui, giúp học sinh tiếp thu các môn học khác hiệu quả hơn. Dưới đây, bài viết sẽ tập trung đi sâu trình bày về những năng lực cá nhân của học sinh được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật ở phổ thông.
2. Các năng lực cá nhân được phát triển trong quá trình học tập môn mỹ thuật - Nhìn từ kinh nghiệm thế giới
Các hoạt động trong môn học mỹ thuật khi được xây dựng hợp lý sẽ cung cấp cho học sinh những trải nghiệm học tập thú vị giúp khám phá bản thân và thế giới. Giáo dục mỹ thuật ở một số nước cho thấy những hiệu quả tuyệt vời về sự giáo dục toàn diện, phát huy các năng lực của người học thông qua các môn học nghệ thuật trong nhà trường như:
- Năng lực nhận thức
- Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
- Năng lực biểu đạt
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực đánh giá
Năng lực nhận thức
Nhờ những trải nghiệm trong quá trình học môn mỹ thuật từ thấp đến cao, học sinh sẽ không chỉ được nâng cao năng lực nhận thức về tạo hình, mà còn cả về các kiến thức lịch sử, văn hóa và xã hội. Về kiến thức mỹ thuật, học sinh có thể tìm hiểu tên gọi màu sắc, hình dạng, chất liệu như biết được sự tạo thành màu mới từ sự pha trộn hai màu cơ bản với nhau, biết cách quan sát qua đó nắm bắt được hình dạng và màu sắc của đối tượng, hình thành và phát triển nhận thức về nghệ thuật ba chiều trong không gian, nắm được một số chất liệu cơ bản sử dụng trong môn học mỹ thuật... Bên cạnh đó, nghệ thuật là công cụ xuất sắc cho việc giảng dạy kiến thức. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó thì cần có chương trình, phương pháp dạy và học thích hợp đối với mỗi lứa tuổi. Công trìnhDiscipline - Based Art education: Acurriculum Sampler1 do Kay Alexander và Michael Day biên soạn năm 1992 cung cấp các ví dụ về những bài học mỹ thuật giúp học sinh nâng cao nhận thức, chẳng hạn, chương trình học dành cho học sinh lớp 2 với năm bài học với các chủ đề như: Ai cũng cần được chăm sóc (Everyone Needs to Care), Mọi người đều cần ai đó (Everybody Needs Somebody), Chia sẻ (Sharing), Cảm xúc (Feelings), và Ngày sinh nhật của mọi người (Everybody’s Birthday). Các chủ đề nói trên được lựa chọn từ sự nghiên cứu về nhu cầu và tâm lý của học sinh. Cả năm bài học đều quan tâm đến việc phát triển năng lực nhận thức thông qua sự tích hợp kiến thức của bốn lĩnh vực: lịch sử nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, phê bình nghệ thuật và mỹ học. Bài học Ai cũng cần được chăm sóc chỉ yêu cầu vật liệu vẽ là bút chì, sáp màu, và giấy, thêm vào đó là ba bức tranh của danh họa thế giới để tham khảo: Em gái với búp bê (Girl with Doll) của Oska Kokoschka2, Thiếu nữ với con mèo (Woman with a Cat) của Piere August Renoir3, và Thiếu nữ với con chó trắng (Woman with White Dog) của Nicholas Vasilieff4, song bài học lại đem đến những hiệu quả tích cực đối với mỗi học sinh. Mục đích của bài học tập trung vào bốn vấn đề: một là, tạo sự kết nối giữa cảm xúc của học sinh về sự quan tâm, chăm sóc và sự biểu hiện những cảm xúc này trong tranh các họa sĩ bậc thầy; hai là, giải thích chủ đề sự quan tâm về điều gì hay ai đó như sự biểu hiện trong tác phẩm hội họa; ba là, học sinh sáng tạo những bức vẽ của mình về chủ đề mà mình quan tâm; bốn là, tạo sự hưởng ứng về thẩm mỹ giữa tác phẩm nghệ thuật và bài vẽ của mình. Như vậy, nội dung bài học chú ý đến sự nhạy cảm của học sinh ở cấp tiểu học về mối quan hệ trong xã hội. Các bước trong bài học giúp học sinh tiếp thu được những kiến thức về sự biểu hiện cảm xúc thông qua nghệ thuật của những nền văn hóa khác, đồng thời nhờ vào quan sát và trải nghiệm trong bài học học sinh phát triển năng lực nhận thức.
Qua ví dụ vừa nêu có thể thấy rằng, môn mỹ thuật sẽ giúp học sinh nâng cao năng lực nhận thức, đạt được những hiểu biết quan trọng về họa sĩ (kiến thức về lịch sử nghệ thuật), phân tích cảm xúc (phê bình nghệ thuật), cảm nhận về thẩm mỹ (mỹ học), biểu hiện cảm xúc cá nhân thông qua việc vẽ tranh (sáng tạo).
Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
Những trải nghiệm thực hành trong môn mỹ thuật như vẽ tranh, nặn đồ vật, cắt dán… sẽ giúp học sinh trở nên khéo léo hơn nhờ đó phát triển năng lực kỹ năng và kỹ thuật. Quá trình học môn mỹ thuật, học sinh học cách biểu hiện cảm xúc bằng đường nét, màu sắc, hình khối mà dần dần có khả năng sử dụng các kỹ thuật khác nhau như vẽ nét, hình, tô màu trên giấy, tạo hình và bố cục sản phẩm mỹ thuật 3 chiều, kỹ năng cắt, dán… Chỉ riêng với vẽ nét, học sinh sẽ rèn luyện những kỹ thuật thể hiện các loại nét khác như như nét thanh, nét thô; hoặc với vẽ hình được rèn luyện kỹ năng sử dụng bút để xây dựng các hình có khả năng diễn đạt cảm xúc; pha trộn các màu cơ bản để tạo thành mầu mới hay quá trình tạo khối từ các vật liệu khác nhau, học sinh sẽ biết cách hoàn thiện và phát triển vật liệu thành sản phẩm mỹ thuật. Ngoài ra còn phải kể đến các kỹ thuật xử lý vật liệu, chất liệu trong quá trình thực hành các bài tập mỹ thuật.
Môn mỹ thuật là môn học thiên nhiều về thực hành, thông qua thực hành để nắm bắt kiến thức, do vậy học vẽ và tạo hình ba chiều sẽ giúp học sinh phát triển được năng lực kỹ năng và kỹ thuật. John Dewey (1859-1952), nhà giáo dục lỗi lạc với gia tài tư tưởng bao trùm đời sống trí tuệ nước Mỹ thế kỷ XX, đã đặt nền tảng triết học cho giáo dục thực nghiệm. Theo đó, phương pháp truyền đạt kiến thức sinh động và cảm hứng đối với người học là những trải nghiệm của tất cả các giác quan, thông qua các bài học có sự kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng thực hành, nhờ đó phát huy được năng lực kỹ năng và kỹ thuật của người học.
Năng lực biểu đạt
Nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện cách nhìn, lối nghĩ về thế giới. Thông qua việc vẽ tranh, nặn đồ vật, tạo hình sản phẩm trong môn học mỹ thuật, học sinh sẽ phát triển năng lực biểu đạt cảm xúc, suy nghĩ, cách nhìn của mình về gia đình, bạn bè, nhà trường và thế giới xung quanh. Giáo dục mỹ thuật ở các nước tiên tiến cho thấy, các bài học theo chủ đề kết hợp với phương pháp học thảo luận mở ra cơ hội giảm thiểu áp lực của việc tiếp nhận thông tin một chiều từ giáo viên, kích thích tư duy sáng tạo, năng lực biểu đạt, trình bày vấn đề, giải quyết vấn đề của người học. Nói cách khác, giờ học mỹ thuật khi được tổ chức khoa học và hợp lý sẽ kích thích các giác quan và giúp học sinh phát triển năng lực biểu đạt. Lấy thí dụ, bài 4 Đường nét, Hình khối, và màu sắc (Lines, Shapes, and Colors) trong cuốn Creating Art 25, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, không chỉ giúp học sinh học về các yếu tố tạo hình cơ bản mà còn giúp học sinh học cách biểu hiện cảm xúc và trình bày ý tưởng. Trong phần bài tập yêu cầu học sinh nghĩ về từ “Giận” (Anger), tiếp đó là câu hỏi “Khi bạn nghĩ đến từ này, màu gì xuất hiện trong tâm trí bạn? Hãy sử dụng màu đó để vẽ một đường nét và hình để biểu hiện sự giận dữ.” Tương tự, bài tập tiếp theo yêu cầu học sinh tìm màu biểu đạt về hòa bình, sử dụng màu đó để vẽ đường nét và hình biểu hiện về hòa bình.
Như vậy, học sinh có thể thông qua các bài tập mỹ thuật học cách trình bày cảm xúc, ước mơ, cách nhìn nhận của mình về sự kiện hay con người. Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng giáo dục nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng nuôi dưỡng sự phát triển não bộ, đặc biệt là chức năng não phải, về sáng tạo và trực quan. Điều quan trọng là giáo dục nghệ thuật dạy tư duy hơn là nhận câu trả lời đúng, chính xác. Trên cơ sở các bài tập mỹ thuật, học sinh tìm hiểu vấn đề, và trình bày cách giải thích theo cách riêng bằng đường nét, hình khối và màu sắc… Học sinh không chỉ phát triển năng lực biểu đạt thông qua phương tiện, ngôn ngữ mỹ thuật mà còn cả năng lực biểu đạt ngôn ngữ, nét mặt, cử chỉ, hành vi.
Năng lực giao tiếp
Các mô hình bài học được thiết kế theo kiểu vẽ cùng nhau, xây dựng câu chuyện, trình diễn, sắm vai, tạo hình mỹ thuật ba chiều… không chỉ tạo hứng thú mà còn phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Trong tất cả các bài học trên, học sinh đều phải tiến hành các bước như trình bày ý tưởng, trao đổi, thảo luận... Những hoạt động này giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, đối thoại, và chia sẻ. Nói cách khác, quá trình tác động trao đổi thông tin, cảm xúc qua lại giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên sẽ rèn luyện kỹ năng, năng lực giao tiếp của học sinh.
Sự tham gia tích cực vào các bài học sẽ giúp học sinh trở nên tự tin hơn, tiếp thu kinh nghiệm của người xung quanh để trở thành vốn sống, kinh nghiệm của bản thân, giúp hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. Sự tiếp xúc và tranh luận giữa các học sinh trong lớp tạo nên sự ganh đua, một sự kích thích, tạo cảm hứng và động lực học tập cho mỗi học sinh. Đồng thời, học sinh cũng được học và phát triển các kỹ năng trong giao tiếp với bạn bè, với giáo viên, biết đồng cảm trong giao tiếp, biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, biết cùng suy nghĩ với đối tượng giao tiếp để tạo ra sự “đồng điệu”.
Năng lực đánh giá
Ngoài những năng lực nói trên, môn mỹ thuật còn giúp học sinh phát triển năng lực đánh giá. Bài 1 trong cuốn Appreciating Art 5, sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines, hướng dẫn học sinh từng bước cảm thụ về các vật xung quanh, được mở đầu như sau:
Rất nhiều thứ xung quanh chúng ta dường như được cấu tạo từ nét - không có gì khác! Thẳng hay quanh co, chúng uốn lượn, xoắn vặn, cuộn tròn, hoặc biến mất trong không gian.
Bạn có thể nghĩ xem những gì như đất, không khí, và nước dường như được làm từ những loại đường nét khác? Những chuyển động nào mà các đường đó có thể gợi ra?
Vậy về những đồ vật bạn đang sử dụng thì sao? Bạn có thể phân biệt được loại đường nét nào của mỗi loại? Bạn có thể vẽ hướng và chuyển động của nó trong không gian?6
Trong ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng học sinh sẽ nhận biết về nét, đồng thời đánh giá được sự biểu hiện các loại nét. Với yêu cầu của mỗi bài học về việc khám phá, nhận biết, và cảm thụ các yếu tố tạo hình, học sinh được rèn luyện năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Bên cạnh đó, những bài tập về thưởng thức nghệ thuật cũng sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của mỗi học sinh, chẳng hạn học sinh sẽ hiểu được rằng khi nghệ sĩ vẽ tranh, họ làm điều đó vì có lý do hoặc mục đích. Nói cách khác, nghệ sĩ kể cho chúng ta nghe một câu chuyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Một số hình vẽ đặc biệt để kể chuyện trong khi các hình khác là để giải thích câu chuyện. Học sinh cũng sẽ thấy được sự khác nhau về cách biểu hiện hình thức nghệ thuật của nghệ sĩ. Đặc biệt với những câu hỏi thảo luận để học sinh được tự do trình bày cảm nhận của mình về nội dung hay hình thức tác phẩm nghệ thuật sẽ phát huy khả năng tự đánh giá vấn đề của người học. Tóm lại, tất cả những kiến thức, nội dung, hoạt động đa dạng khi được tích hợp trong môn mỹ thuật sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của người học.
3. Nhận xét đóng góp về đổi mới chương trình, sách giáo khoa mỹ thuật phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Nhìn từ kinh nghiệm thế giới có thể thấy những lợi ích của môn mỹ thuật đối với học sinh trong việc phát triển các năng lực cá nhân. Tuy nhiên, trong nhiều năm công việc dạy và học mỹ thuật ở Việt Nam chưa thực sự khơi được tiềm năng sáng tạo, kích thích trí tưởng tượng, nuôi dưỡng niềm đam mê của học sinh. Thậm chí, trong một số trường hợp do cách dạy cứng nhắc khiến một số em không thích hay sợ học mỹ thuật. Sau đây là ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên và chương trình sách giáo khoa mỹ thuật cấp phổ thông ở Việt Nam.
Ý kiến đóng góp về đội ngũ giáo viên
Từ trước đến nay, đa phần các ý kiến thường tập trung phê phán về chương trình, cũng như phương pháp dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song, nguyên nhân của việc giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam chưa phát triển còn do thiếu đội ngũ giáo viên dạy mỹ thuật giỏi có khả năng tổ chức những buổi học sinh động, hấp dẫn, và hiệu quả. Thực tế cho thấy, một số giáo viên thường chú trọng đến kỹ thuật mà ít chú ý đến sự biểu hiện cảm xúc của học sinh thông qua các bài tập vẽ. Điều này đôi khi xuất phát từ hạn chế của chính người giáo viên khi lấy tiêu chuẩn vẽ giống, vẽ đúng làm khuôn mẫu. Quá trình giảng dạy cho các sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mỹ thuật (hiện là những giáo viên dạy mỹ thuật ở phổ thông) của cả Hà Nội và một số địa phương, có thể thấy những thiếu hụt kiến thức quan trọng về lịch sử nghệ thuật, phê bình mỹ thuật, và sáng tạo nghệ thuật. Do đấy, dù có giáo trình, chương trình, bài học thiết kế tốt như những ví dụ đã nêu của thế giới nhưng nếu thiếu người giáo viên có kiến thức và năng lực sư phạm thì sẽ khó thu được kết quả như mong muốn. Những bài học trong Discipline-Based Art education: A Curriculum Sampler của Kay Alexander và Michael Day đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức nhất định để chuyển tải và phát huy sự tích hợp bốn lĩnh vực lịch sử nghệ thuật, phê bình nghệ thuật, mỹ học, và sáng tạo nghệ thuật.
Để giáo dục mỹ thuật thực sự đóng góp vào việc phát triển toàn diện, thì mỗi giáo viên trước hết cũng cần phải có kiến thức toàn diện. Bởi, nếu người thầy không có kiến thức về lịch sử nghệ thuật thì sao có thể hiểu được vẻ đẹp, phong cách nghệ thuật, mục đích của mỗi giai đoạn nghệ thuật trong lịch sử mỹ thuật của nhân loại để từ đó có thể gợi mở, truyền đạt, hay giúp học sinh trong quá trình học môn mỹ thuật ở phổ thông; nếu người thầy không có kiến thức về thẩm mỹ học thì làm sao có thể giúp học sinh nâng cao năng lực thẩm mỹ, cũng như khuyến khích học sinh tưởng tượng, tự do trong biểu hiện những cảm xúc cá nhân, cảm thụ tác phẩm; và nếu người thầy không hiểu được bản chất của nghệ thuật là gì thì sao có thể đánh thức tiềm năng sáng tạo trong mỗi người học? Hiện nay, chúng ta chủ trương tăng cường phương pháp dạy học tích cực: gợi mở, vấn đáp, hướng dẫn trong dạy và học mỹ thuật ở phổ thông. Song điều quan trọng là càng tăng cường phương pháp dạy mới thì người giáo viên mỹ thuật lại càng cần phải nâng cao hơn nữa kiến thức về mỹ thuật cũng như những bộ môn liên quan.
Ý kiến đóng góp về chương trình, giáo trình
Cho đến nay, nỗ lực hỗ trợ của các tổ chức giáo dục và quốc gia trên thế giới đối với giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam không phải là nhỏ, đặc biệt là trong xây dựng chương trình và giáo trình. Năm 1999, SEAMEO-SPAFA (Thái Lan) đã tổ chức Workshop về phát triển chương trình giáo dục mỹ thuật và các module bài học cho các trường tiểu học ở khu vực Đông Nam Á. Các chuyên gia đến từ Canada, Philipines, Úc… tập huấn các phương pháp mới trong giáo dục mỹ thuật, đồng thời cập nhật những nghiên cứu mới nhất về chương trình và giáo trình. Tuy nhiên, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan mà tác động của các workshop như vừa nêu trên vẫn chưa đem đến những thay đổi căn bản cho giáo dục mỹ thuật ở Việt Nam. Chẳng hạn, đa số các workshop có qui mô nhỏ, chỉ một số ít người được tiếp cận với chương trình, giáo trình và phương pháp mới, vì thế tác động và hiệu quả chưa cao. So với các dự án và tập huấn về giáo dục mỹ thuật trước kia, thì Dự án Hỗ trợ giáo dục mỹ thuật cấp tiểu học do các chuyên gia Đan Mạch tư vấn hoạt động trong những năm gần đây đã tác động tích cực, rõ rệt trên diện rộng đối với giáo viên và học sinh. Hiệu quả giáo dục và ưu điểm của phương pháp mới trong dạy học mỹ thuật cấp tiểu học đã được chứng minh thông qua sự vận dụng nội dung và kỹ thuật dạy học của các chuyên gia Đan Mạch tại 6 tỉnh và thành phố. Dẫu vậy, sẽ là sự thiếu đồng bộ và toàn diện nếu như chương trình, giáo trình vẫn bất cập. Hiện nay, từ tên bài học cho đến sách giáo khoa về giáo dục mỹ thuật của chúng ta vẫn cứ khô cứng, thiếu định hướng và mang nặng lý thuyết. Hãy thử so sánh:
Về tên sách :
Ở Việt Nam Ở Philipines7
Vở tập vẽ 1 Discovering Art 1 (Khám phá nghệ thuật 1)
Vở tập vẽ 2 Creating Art 2 (Sáng tạo nghệ thuật 2)
Vở tập vẽ 3 Expresing Art 3 (Biểu hiện nghệ thuật 3)
Mĩ thuật 4 Experiencing Art 4 (Trải nghiệm nghệ thuật 4)
Mĩ thuật 5 Appreciating Art 5 (Đánh giá nghệ thuật 5)
Về tên bài học trong sách Mĩ thuật 5 của Việt Nam:
Bài 1: Thưởng thức mĩ thuật Xem tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
Bài 2: Vẽ trang trí Màu sắc trong trang trí
Bài 3: Vẽ tranh Đề tài trường em
Bài 4: Vẽ theo mẫu Khối hình hộp và khối hình cầu
Về tên bài học trong sách Experiencing Art 48 (Trải nghiệm nghệ thuật 4) của Philipines.
Bài 1: Không gian (Unit 1. Space)
Bài 2: Đường nét và hình dáng (Unit 2: Line and Shape)
Bài 3: Nhịp điệu và kết cấu (Unit 3: Tone and Texture)
Bài 4: Màu sắc và bố cục (Color and Composition)
Dễ nhận thấy ở các ví dụ trên, từ bài học cho đến tên sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines đều thống nhất về nội dung và mục đích. Tên sách là “Trải nghiệm nghệ thuật” thì các bài học đều hướng đến các nội dung về các yếu tố tạo hình. Tương tự, chủ đề các bài học mỹ thuật trongDiscipline - Based Art Education: Acurriculum Sampler vừa có nội dung vừa kích thích sự tìm tòi của học sinh, thí dụ như: Discovering and Producing (Khám phá và sáng tạo các hình), Who are architects? What do they do? (Kiến trúc sư là ai? Họ làm nghề gì?)…
Ngoài ra, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông cũng cần có sự kết hợp với giáo dục di sản. Chẳng hạn, Bảo tàng Vaster Bottom (Thụy Điển) có chương trình giáo dục nghệ thuật và di sản hấp dẫn, do đấy, thu hút nhiều học sinh của các trường đến tham dự. Một trong những bài học thú vị là học sinh pha trộn màu tự nhiên bằng cành cây, sau đó vẽ trên đá. Như vậy, khi tham gia học sinh sẽ cùng lúc học về mỹ thuật và học về nghệ thuật vẽ trên đá của người Sami. Giáo dục nghệ thuật khi được kết hợp với kiến thức về di sản sẽ góp phần làm nội dung bài học trở nên phong phú hơn, qua đó đánh thức được tiềm năng sáng tạo của người học.
***
Với mục tiêu giáo dục toàn diện, cùng với các môn học khác môn mỹ thuật góp phần trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ của học sinh. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, chỉ khi chương trình, giáo trình được xây dựng hợp lý, hướng đến sự phát triển các năng lực cá nhân của người học thì mới phát huy hiệu quả và mang đến lợi ích cho người học. Vì thế, chương trình giáo dục mỹ thuật ở phổ thông ở Việt Nam cần được nghiên cứu, đổi mới sao cho có thể tích hợp các hoạt động, nội dung để phát triển các năng lực cá nhân của mỗi học sinh. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi có kiến thức và năng lực sư phạm mỹ thuật.
B.T.T.M
Bài tham luận "Hội thảo Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào điều kiện của Việt Nam" do Bộ Giáo dục và Trẻ em Đan Mạch kết hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam tổ chức ngày 10, 11, 12 tháng 12 năm 2012, tại Hà Nội.
Chú thích:
- Cấu trúc bài học gồm các phần: Mục tiêu (Objective), Thời gian (Time), Từ vựng (Vocabulary), Kế hoạch và chuẩn bị (Planning and Preparation), Giới thiệu chiến lược và động cơ (Instructional Strategies and Motivation), Hướng dẫn (Instroduction), Hoạt động sáng tạo (Production Activities), Đánh giá (Evaluation), Các hoạt động liên quan (Related Activities). Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
- Oska Kokoschka (1886 - 1990), họa sĩ người Áo.
- Piere August Renoir (1841 - 1919), họa sĩ người Pháp.
- Nicholas Vasilieff (1877 - 1956), họa sĩ người Nga.
- Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
- Nguyên văn trong tiếng Anh:
“So many things around us seem to be made up of pure lines - nothing else! Straight or crooked, they bend, twist, curl, or turn in space.
Can you think of some things on land, air, and water that seem to be made of different kinds of lines? What movement do the lines suggest?
What about the objects that you use? Can you identify the kind of line each has? Will you be able to draw their direction and moverment in space?
Turn the page and see if you can complete the chart on lines.” Tr.1.
- Bộ sách giáo khoa mỹ thuật của Philipines bao gồm: Exploring Art (Preschool), Discovering Art 1, Creating Art 2, Expresing Art 3, Experiencing Art 4, Appreciating Art 5, Understanding Art 6 do nhiều tác giả thực hiện. Philipines - Art - Educations - Association.
- Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.
Tài liệu tham khảo:
Kay Alexander and Michael Day biên soạn (1991), Discipline - Based Art Education: A Curriculum Sampler. Curriculum Development Institute. The Getty Center for Education in the Arts. Santa Monica, California.
Catalina Ferriols Tacujan (1995), Creating Art 2, Blesilda M. C. O. Rey noso, Coordinator, Phoenix Publishing House.
Zenaida Diaz Xavier (1995), Experiencing Art 4, Phoenix Publishing House.